Sunday, December 11, 2022

 BÀI LỜI CHÚA 34-35
BÀI 34
Thương linh hồn bảy mối (tiếp)

Sách Kinh Thánh kỳ trước thuật chuyện tiên tri Yô-na bỏ trốn sự vụ rao giảng, hôm nay, Kinh Thánh cho ta nghe chuyện ơn kêu gọi làm tiên tri của Ysaia. Ngược với Yô-na, Ysaia lại tự dâng mình đi rao giảng cho dân.
Trích sách Tiên tri Ysaia, ch.6
Tiên tri Ysaia kể rằng: “Lối năm -742, Vua Ô-zy-a chết, tôi đã được thấy Thiên Chúa: Người ngự trên ngai cao thẳm, hoàng bào của Người xòa lấp Đền Thờ. Chung quanh Người có những thần Sê-ra-phim chầu hầu, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh phủ mặt (kẻo trông thấy Thiên Chúa uy nghi mà phải chết), hai cánh che mình, hai cánh còn lại để bay (mà đi thi hành lệnh Chúa). Các vị ấy luôn luôn đối đáp nhau mà tung hô Thiên Chúa rằng:
- Chúa là Đấng Thánh, Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh! Yavê các cơ binh, trời đất đầy vinh quang Chúa!
Tiếng hoan hô, chúc tụng vang rền, làm các cửa Đền Thờ rung rinh và Đền Thờ nghi ngút khói. Ysaia run sợ than:
- Tôi chết mất, các thiên thần còn không được nhìn mặt Chúa, mà tôi đã được thấy Người. Tôi là kẻ tội lỗi, môi miệng đầy nhơ uế!
Bấy giờ, một vị Sê-ra-phim bay đến, gắp một cục than hồng trên hương án Đền Thờ, đụng vào miệng lưỡi tôi mà nói:
- Lửa hồng này đã tẩy sạch miệng lưỡi ngươi, tất cả tội lỗi của ngươi được tha.
Ngay đó, tiếng Yavê phán:
- Ta sẽ sai ai đi rao giảng lời Ta cho dân chúng?
Ysaia sốt sắng thưa ngay:
- Này tôi đây! Người cứ sai tôi!
Yavê phán: 
- Vậy ngươi hãy đi rao giảng cho dân! Nhưng hãy nhớ rằng: đừng ngã lòng, dân này cứng đầu, nó nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy, chúng không trở lại mà được tha thứ.
Tôi hỏi:
- Sự ấy sẽ kéo dài đến bao giờ?
Chúa đáp:
- Cho đến khi các thành chúng bị tàn phá tan hoang, nhà không người ở, đất không ai trồng!...
* Đó là Lời Chúa! - Tạ ơn Chúa!

Suy niệm Lời Chúa
Được sai, thế là Ysaia đi rao giảng, ông đã trở thành một tiên tri lớn nhất. Mặc dù dân chúng không nghe, không tin lời giảng, ông cứ thi hành nhiệm vụ, ngày đêm bất kể, vì nhiệt thành lo phần rỗi linh hồn người ta. Nhiều lúc, thấy dân chúng và vua quan cứng lòng, chai đá, ông giận run lên, hét những lời đe dọa nẩy lửa. Lúc khác, thấy trước cảnh tàn phá, thành hoang, đất trống, dân chúng sẽ bị lưu đầy khốn khổ vì tội lỗi mà không ăn năn hối cải, ông đau đớn thốt lên những lời than ai oán xé tâm can.
Chúng ta cũng vậy, mỗi người hãy là một Ysaia khác hiến thân rao giảng Lời Chúa khi có dịp, tùy khả năng và thời giờ của mình, vì vinh quang Thiên Chúa và vì phần ích thiêng liêng cho người đời.
Trong tinh thần ấy, ta đọc tiếp các mối thương linh hồn.
Mối thứ ba : Răn bảo kẻ mê muội
Không kể tội lỗi, ngày nay còn một khốn khó khác là sự trí khôn mê muội, dốt nát về tôn giáo, không thông giáo lý. Còn về mặt lương tâm và luân lý thì mù mờ, không biết cái gì làm được, cái gì không được phép làm : cái này có tội không, cái kia có tội không? Tỉ dụ : cột buồng trứng có tội không Ngừa thai là điều làm được hay bị cấm? Viết lý lịch mà gạch bỏ chữ Thiên Chúa giáo đi có là chối đạo hay chưa? Mà trong số những người mê muội, họ không phải như thời Ysaia đều cứng cổ cả đâu! Trái lại, có rất nhiều tâm hồn thiện chí, khao khát biết sự thật. Và có khi các kẻ mê muội lại chính là người nhà của mình: chồng, vợ, con cháu. Nếu không noi gương Ysaia, đến khai sáng cho họ hiểu đường lối của Chúa, thì tội nghiệp biết bao!
Ta hãy nghe chuyện Phúc Âm: Một hôm, Chúa Giêsu bảo: “Hãy đi ra một nơi hiu quạnh, thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!”. Vậy thày trò lên đò đi đến một nơi vắng vẻ. Ai ngờ, dò biết được các ngài đến đó, dân từ khắp các làng xóm chung quanh rủ nhau kéo đến, và còn đến trước các ngài nữa. Vừa lên khỏi đò, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì Ngài chạnh lòng thương xót họ, vì họ như cừu chiên không có người chăn dắt, dạy dỗ. Và dù mỏi mệt, chưa ăn uống gì, Ngài cũng lên tiếng giảng dạy cho họ... dạy mãi đến tận chiều, các tông đồ phải đến xin Chúa cho họ giải tán đi vào thôn xóm xung quanh mua thức ăn. Nhưng hôm ấy, Chúa thương đã làm phép lạ nuôi họ no nê cả phần xác nữa, bằng việc hóa bánh ra nhiều (Mc 6.30-44).
Sau Chúa Giêsu, đến lượt các tông đồ cũng vậy, lo chia tay nhau mỗi người một phương giảng dạy kẻ mê muội, lầm đường lạc lối. Có cái hay là Kinh Thánh thuật lại việc các giáo dân cũng lo việc dạy dỗ ấy. Như ông A-pô-lô, ông vốn là người Do thái nên thông thạo Kinh Thánh; sau khi học biết đạo Chúa Giêsu, tâm hồn ông nồng nhiệt mến Chúa, thương linh hồn, nên dù là giáo dân, ông cũng tìm mọi dịp giảng dạy về Chúa Giêsu một cách xác đáng. Lại có cặp vợ chồng Pri-ki-la và A-ki-la, cũng là bạn với Thánh Phaolô, nghe tin ông A-pô-lô như vậy, đã đến gặp ông và trình bày cặn kẽ hơn về đạo Chúa Kitô... (x. Cv 18.24-28). Ôi, chớ gì xứ đạo chúng ta ngày nay mà có được một số người, nam nữ, trẻ già như mấy người ấy, thì thật là phúc lớn!
Mối thứ tư : An ủi kẻ âu lo
Trong cuộc sống náo nhiệt ngày nay, nhìn cảnh quần áo chưng diện đúng mốt thời trang, cảnh ăn uống lu bù quán nọ, tiệm kia, cảnh xô nhau ào ào đi mua sắm đồ đạc, nhất là những nét mặt hớn hở của những người được thùng đồ tiếp tế ngoại quốc gửi về..., tưởng chừng ai cũng sung sướng, hạnh phúc. Có nhìn kỹ hơn mới thấy: con người thường bị bao nỗi buồn bã làm tê liệt tâm hồn. Khỏi cần kể, ai cũng biết các điều ấy rồi! Đời là bể dâu mà! Mỗi người mỗi cảnh, mỗi đời mỗi cơn đau: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!”.
Thánh Phaolô cũng trải qua nhiều kinh nghiệm đau đớn, nên ông mới nghiệm ra rằng: “Thiên Chúa là Cha đầy thương xót và là Chúa mọi nguồn an ủi. Người an ủi ta trong mọi cơn gian truân, khốn khó, ngõ hầu ta có thể an ủi kẻ khác” (2Cr 1.3-4). Cái hay trong câu ấy của Thánh Phaolô là ông đã được kinh nghiệm thấy trong bao nỗi gian truân, Thiên Chúa đã an ủi và thương xót ông, nên ông mời ta hãy nhớ lại bao lần trong các khốn khó, đau khổ của đời ta, ta đã nếm được sự an ủi và thương xót của Chúa, thì ông nói: đến lượt ta, ta cũng hãy an ủi kẻ đau buồn như vậy. Thiên Chúa an ủi ta, ta đem niềm an ủi ấy biếu cho người khác, và cứ thế, dòng sông tình yêu chảy xuôi mãi xuống, tràn lan ra...
Nhiều lúc, đứng trước đau khổ lớn lao tràn ngập tâm hồn của một người, chẳng hạn một cái chết của người họ yêu thương, ta cảm thấy bất lực, không biết nói lời gì an ủi - lời nói của ta, thấy nó quá nhạt nhẽo... Lúc ấy, chỉ còn cách: im lặng và cầu nguyện cho họ: xin Cha là nguồn an ủi đến an ủi họ thay ta. Có một cách nữa: lấy một vài Lời Chúa hợp tình cảnh mà nâng đỡ tâm hồn họ. Ví dụ, trong cảnh có người thân chết, lấy lời Chúa dạy về cuộc phục sinh, và Chúa đến lại... (x. 1Tx 4.18; 5.9-11,14). Cần nhất đừng để các người âu sầu ở một mình, lẻ loi, cô độc... Khi có thể, ta làm họ nguôi ngoai bằng cách cứ để họ khóc cho đã; lúc khác, bằng cách xin họ kể cho mình nghe duyên cớ làm họ buồn, hoặc hỏi xem họ có cần ta giúp đỡ gì không, hoặc tích cực nữa là làm họ giải trí, quên đi nỗi sầu, chẳng hạn mời họ đi dạo, đi xem phim hay cho mượn một cuốn truyện hấp dẫn...
Mối thứ năm : Tha kẻ dể ta
Đây là một việc thương xót người ta hơn cả: sự tha thứ! Thoạt nghe cũng lấy làm lạ, vì ta thường nghe giảng dạy: bổn phận phải tha thứ; còn ở đây lại nói là một sự thi thố lòng thương xót. Thực ra, cả hai đều đúng, tùy người ta xét theo góc cạnh nào. Trước hết, nếu xét theo góc cạnh Thiên Chúa, thì phải nói chúng ta có bổn phận phải tha thứ những điều người ta đã xúc phạm đến ta, như chính Chúa đã tha thứ cho ta muôn vàn tội lỗi. Chính Chúa Giêsu đã lấy một dụ ngôn rất hay mà giảng về điều đó: Có một ông quan lớn kia, mắc nợ vua một vạn nén vàng (cỡ 100 triệu đồng). Thật là một món nợ khổng lồ! Vì không có để trả, nên nhà vua ra lệnh bán ông ta cùng vợ con làm nô lệ và tịch thu gia sản để trả nợ. Ông ta quì xuống, khẩn khoản van xin vua khoan hồng, để ông tìm cách góp nhặt mà trả. Động lòng thương, Vua thả ông ta, lại còn tha bổng cho cả món nợ. Vài ngày sau, đi chơi ngoài phố, ông bắt gặp một bạn đồng nghiệp nợ ông vỏn vẹn có 100 đồng. Ông ta liền túm lấy áo, đè xuống đất quát:
- Nợ đâu, trả đây!
Người bạn năn nỉ xin thư thả sẽ trả hết, nhưng ông ta không chịu, bắt bạn bỏ tù cho đến khi trả xong. Bạn bè thấy ông cư xử tồi tệ quá như vậy, mới kể lại sự việc cho Vua nghe. Đùng đùng nổi giận, Vua sai bắt ông ta vào triều mà mắng:
- Đồ bất nhân bất nghĩa! Trẫm đã tha bổng cho ngươi, vì ngươi nài xin trẫm. Há ngươi không phải thương xót và tha cho bạn ngươi, như trẫm đã thương và tha cho ngươi sao?
Phán xong, Vua sai lý hình bỏ tù và hành hạ y cho đến chết. Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận:
- Cũng vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình (Mt 18.23-33).
Lời Chúa dạy quá rõ, chẳng cần thêm gì; trong thực tế, chỉ xin nhớ điều này: Nếu trong lòng ta còn cưu hờn, tích oán bất kỳ ai, người dưng hay người thân trong gia đình, họ hàng, mà không tha thứ tự đáy lòng, thì ta có đi xưng tội cả chục lần, các tội ta vẫn không được tha, dù cha giải tội có lầm không biết mà cứ ban phép giải tội. Nếu đi rước lễ sau đó, lại thêm phạm sự thánh. Mọi việc đọc kinh, lần hạt, việc lành phúc đức lúc ấy đều vô giá trị trước mặt Chúa. Cách đây ít năm, có bà kia đi dự khóa Thánh Linh, thấy các người khác được đầy các ơn lạ lùng: nào vui mừng, bình an, nào nói tiếng lạ, có người được Chúa ban ơn an ủi đến ngây ngất; còn mình thì cứ trơ trơ ra, lạnh như đá, như đồng. Bà buồn quá, đến hỏi Cha hướng dẫn khóa cầu nguyện, thì Cha bảo:
- Cố xét mình xem con còn mắc kẹt gì không?
Về nhà, bà xét mình: chẳng thấy nợ nần ai, chẳng lấy của ai, không gian tham, không dâm ô, không bỏ lễ... Mãi vài hôm sau, chợt nhớ mình còn giận chồng, hận con... Như một ánh sáng bởi trời soi thấu nỗi u ẩn, bà đầy lòng hối hận, ăn năn, đi xưng tội và quyết lòng tha thứ tất cả. Quả nhiên, hôm sau, lúc giờ cầu nguyện, bà được Chúa ban xuống cho bà muôn hồng ân, bình an, vui mừng và cho bà được ân tứ cầu nguyện bằng tiếng lạ nữa. Ôi! Kể sao xiết nỗi vui mừng!
Bây giờ, ta đứng góc cạnh người đã xúc phạm tới ta mà xét, thì có thể nói: tha thứ là một việc thi hành lòng thương xót. Vì sao? Hãy xem lại dụ ngôn trên: Ông quan đã cư xử ra sao với người bạn? Thưa: ông bỏ tù bạn! Thế nếu ông tha thứ thì ông sẽ làm gì? Thưa: sẽ thả bạn ra và tha bổng cho bạn. Vậy đó, chẳng phải là thi hành lòng thương xót sao? Phần ta, tha thứ cho người khác, tức cũng như thả họ ra khỏi tù vậy.
Mối thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta
Mối này hơi khác với mối trước. Không còn là chuyện tha thứ, song là nhịn nhục, nhẫn nại, chịu đựng những cử chỉ, những thái độ, tính nết, lời ăn, tiếng nói của kẻ khác làm ta khó chịu, đau đớn, khổ sở... Tha thứ thì chỉ đôi khi xảy ra, chứ nhịn nhục thì xảy ra hàng ngày. Vì đã sống chung thì có đụng chạm. Mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi ý riêng, quyền lợi riêng, sở thích riêng, nên dễ va chạm, dễ làm mất lòng nhau. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vác gánh nặng của nhau, và như thế, anh em sẽ giữ trọn luật của Chúa Kitô” (Gc 6.2) - “Hãy chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến, với hết lòng khiêm nhường và hiền từ... Hãy hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thần Khí, trong sự hòa thuận” (Ep 4.2-3) - “Ai có lòng bác ái thật thì sẽ chịu đựng được mọi sự, bao dung mọi sự, kiên nhẫn trong mọi sự” (1Cr 13.7). Hãy noi gương Thiên Chúa, vì Kinh Thánh nói: “Bất chấp các tội phạm trước kia của loài người (kể từ tội của Ađam, suốt bao nghìn năm), Thiên Chúa vẫn cầm mình nhẫn nại... cho đến thời Người sai Đức Giêsu đến để cứu kẻ nào có lòng tin” (Rm 3.26). Đó, chính Thiên Chúa cũng phải cầm mình nhẫn nại, vì Người cũng đau buồn vì tội lỗi loài người lắm chứ! Kinh Thánh cho biết: “Yavê thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều..., suốt ngày họ chỉ mưu tính sự độc dữ. Và Yavê đã phải đau phiền trong lòng...” (Kn 6.5-6). Thế mà “Ngài đã cầm mình lại, khoan dung, chịu đựng ta” (Rm 9.22), còn ta, Kinh Thánh ví như “cái bình thịnh nộ, sẵn chờ hư đi”, nghĩa là ta ví như cái bình chất đầy tội lỗi bên trong, tức là chứa đầy thịnh nộ của Thiên Chúa, chờ ngày nổ tung tiêu diệt ta hư đi đời đời. Thế mà, Thiên Chúa đã nhẫn nhịn, chờ ta ăn năn hối cải để được cứu. Đến lượt ta cũng phải nhẫn nhịn chịu đựng anh chị em ta như thế.
Kể ra tha thứ hoặc nhịn nhục rất khó. Tại sao? Tại ta nhìn vào ta nhiều quá, ta thấy ta bị xúc phạm, quyền lợi ta bị thiệt thòi, hoặc vì ta nhìn chằm chằm vào các lỗi lầm nơi anh chị em khác, càng thấy sai trái, càng thấy thái độ, càng nghĩ đến lời ăn, tiếng nói xúc phạm của họ, ta càng bừng bừng tức giận... Nhưng nếu ngược lại, ta nhìn lên Thánh giá, Chúa đang chịu đóng đinh giữa vô vàn khổ đau, Ngài đã thốt lên lời van: “Xin Cha tha thứ vì họ lầm chẳng biết”..., ắt ta sẽ múc được sức mạnh mà nhịn nhục, chịu đựng và tha thứ cho người đời.
Tích truyện
Người ta kể chuyện nhạc sĩ Bét-tô-fen, một hôm đi ngang qua nhà kia, từ trong nhà vẳng ra tiếng nức nở nghe vô cùng não nuột, thương tâm. Dừng lại nghe một lát, tâm can ông bùi ngùi xúc động. Nhạc sĩ không cầm lòng nổi, ông nhè nhẹ mở cửa bước vào. Một cảnh tượng buồn thảm hiện ra trước mắt: một bà mẹ trẻ đang khóc thương trước thi hài đứa con trai độc nhất của bà, đang còn phủ khăn liệm. Nỗi đau thương bi lụy ấy, ai có lời nào an ủi nổi. Chợt nhạc sĩ thấy loé ra trong đầu một sáng kiến. Ông êm ả đến cạnh chiếc đàn organ (phong cầm), nhẹ nhàng chơi một bản êm đềm, thánh thót: ông để tất cả tâm tình cảm thông vào các phím đàn, ông muốn nhờ đàn diễn tả tất cả những lời an ủi, mà lời nói không sao tả được... Tiếng nhạc khi trầm, khi bổng, êm ái, du dương... Và cứ thế, người ta thấy bà mẹ dần dần vơi buồn, bớt khóc than và khô giọt lệ, đôi mắt bà mẹ nhìn lên trời với tất cả lòng biết ơn thầm lặng... Rồi nhạc sĩ đậy nắp đàn, êm ả rút lui, không một tiếng động, để lại trong nhà một bà mẹ, tim bừng sáng niềm trông cậy...
**************************
BÀI 35
Điều răn thứ sáu và thứ chín: chớ dâm dục
Trích sách Khởi Nguyên, ch.2

Vào ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời... Yavê Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi đất lấy tự đất đai, Ngài đã hà hơi sống vào mũi nó và nó đã thành một người sống. Thiên Chúa đã trồng vườn cây ở Ê-đen, rồi đặt con người vào trong đó để canh tác và giữ vườn. Trong vườn ấy, Thiên Chúa cho mọc lên mọi thứ cây coi sướng mắt và quả thì ăn ngon lành, lại có cây sự sống ở giữa vườn cùng cây biết tốt xấu. Trong vườn lại có những con sông phù sa phì nhiêu chảy qua.
Yavê Thiên Chúa phán:
- Nếu người ta chỉ có một mình, điều ấy không tốt. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp tương xứng với nó.
Và Yavê Thiên Chúa đã nắn ra từ đất đai mọi thứ dã thú, mọi giống chim trời, rồi Ngài dẫn chúng đến cho con người, xem nó gọi làm sao, thì tên chúng là vậy. Con người đã đặt tên cho mọi giống súc vật ấy. Nhưng còn phần riêng họ, họ vẫn không gặp được người trợ giúp tương xứng nào. Và Thiên Chúa đã giáng xuống trên con người một giấc ngủ kỳ lạ, rồi Ngài đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lắp thịt vào. Và trên sườn đã rút tự con người, Thiên Chúa đã làm thành người đàn bà. Đoạn Ngài dẫn đến với con người. Thoạt thấy nàng, nó kêu lên sung sướng:
- Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ mang danh là “đàn bà”, vì đã được rút từ đàn ông.
Bởi thế, đàn ông sẽ rời bỏ cha mẹ mà khắng khít với vợ mình, và chúng sẽ nên một thân xác.
* Đó là Lời Chúa! - Tạ ơn Chúa!

Suy niệm Lời Chúa
Với bài Lời Chúa hôm nay, ta bắt đầu học về điều răn thứ sáu. Nhưng ngay đây, xin đặc biệt lưu ý một điều: trong vấn đề quan trọng chừng này của cuộc đời con người - vấn đề nam nữ - ta đừng chỉ chăm chú hỏi xem sự gì cấm, sự gì cho phép, tức là chỉ chú ý đến giới răn, điều luật. Tất cả chúng ta, từ trẻ đến lớn, để là Kitô hữu sau Công Đồng Vatican 2, phải có một lối nhìn đổi mới, phải “đổi mới tư duy” - như ngày nay người ta thường nói - phải có một cái nhìn sâu xa, rộng lớn hơn phạm vi giới răn, điều luật; phải có một thái độ Kitô giáo chân chính, đúng đắn như Kinh Thánh dạy và Công Đồng hướng dẫn.
Muốn được như thế, phải học hỏi nhờ Kinh Thánh và sự hướng dẫn của Công Đồng, để biết được ý muốn của Thiên Chúa thế nào, khi Ngài tạo dựng nên loài người có nam có nữ. Phải học hỏi, phải dùi mài cho đến kỳ nhập tâm, trở thành thói quen, thành nếp sống, thành thái độ, cử chỉ bình thường trong đời sống mình.
Những điều sẽ nói đây, có lẽ chẳng có chi mới lạ, nhưng điều cần là nhắc lại, “ôn cố nhi tri tân” để nhập tâm.
1/ Người khác phái không phải là mối nguy hiểm:
Ta vừa nghe đọc Lời Chúa trong sách Khởi Nguyên, điều đầu tiên Chúa dạy không phải là bổn phận bảo vệ nhân đức trong sạch. Kỳ cục thật! Cứ nghe nói đến điều răn thứ sáu và thứ chín, là tức khắc người ta nghĩ ngay đến cấm đoán: Chớ làm cái này! Đừng làm cái kia!... Trong bài Kinh Thánh vừa đọc, ta thấy trái lại: Chúa nói chuyện yêu đương. Chúa cưới vợ cho ông Ađam. Ông Ađam thấy vợ, sướng quá, ca lên, hát lên lòng biết ơn và hạnh phúc có được một người bạn đời. Rồi Kinh Thánh nhẹ nhàng nói đến chuyện họ kết hợp với nhau khắng khít, quí nhau, cần nhau, đến nỗi bỏ cả cha lẫn mẹ mà quấn quít lấy nhau, thành một thân thể:
“Mình với ta xưa hai nay một!”
Một bản văn Kinh Thánh khác bổ cứu thêm: Thiên Chúa chúc lành cho tình yêu vợ chồng ấy và bảo: “Hãy yêu nhau nhiều vào, để sinh con đẻ cái đầy đàn đầy đống, ngõ hầu bá chủ trên hành tinh này, cùng muôn vật trên vũ trụ”. Đoạn Thiên Chúa khoanh tay nghỉ việc, Ngài ung dung vuốt râu, sung sướng vì đã thành công trong việc tạo dựng. Ngài thấy nó đẹp quá, tốt quá, không chê vào đâu được. Có thể nói, nếu Ngài không tạo dựng, chắc Ngài không được hạnh phúc như vậy. Tạo dựng thành công, tốt đẹp, Ngài như thêm vinh quang và hạnh phúc.
Trong cảnh tả trên, không có gì là cấm kỵ. Vì thế, Thiên Chúa dựng nên nam nữ, trước hết không phải để cấm trai gái, nam nữ yêu nhau, không phải để cấm nhìn, cấm nghĩ đến nọ kia. Vì trong viễn tượng cấm kỵ, người khác phái sẽ bị coi là một mối nguy hiểm cho ta. Và nếu họ tự nhiên hấp dẫn ta - hấp dẫn cách thú vị là đàng khác - họ lại vẫn là một vật mà ta cứ phải tránh lánh, trước họ, ta phải đề phòng như một nguy cơ cho bản thân. Nhiều lần, ta còn nghe nói độc địa thế này: Đàn bà là quỉ Satan cám dỗ đàn ông! Một câu nói, xét cho cùng, không có tinh thần Chúa Kitô.
Do một cách dạy đạo từ xưa quá tiêu cực, chỉ nhằm bảo vệ đức trong sạch tư riêng cá nhân về điều răn thứ sáu và thứ chín (chớ dâm dục, chớ muốn vợ chồng người), nên ta luôn ở vào thế phòng thủ, bảo vệ. Đành rằng điều ấy không hoàn toàn sai hay phải bỏ đi đâu. Không! Song người ta quên nhắm đến mặt tích cực, là sự đánh giá người phái kia, và tôn trọng họ đúng phẩm giá, chức vị và khả năng của họ, như Kinh Thánh dạy. Nếu ta có cái nhìn tích cực nói đây, việc tuân giữ hai giới răn 6 và 9 sẽ trở thành một việc của lòng yêu thương: ta yêu mến, tôn trọng Chúa và trật tự Chúa đặt ra về vấn đề nam nữ, và ta yêu mến người khác phái, tôn trọng, kính nể họ: đó là ta thi hành đức bác ái rồi vậy.
Xin lưu ý: Cái lối nhìn tích cực và cởi mở này không phải là cấp tiến, hoặc thích bày điều mới lạ. Đúng hơn là do Giáo Hội ngày nay trở về với Kinh Thánh, mà rút ra từ Lời Chúa dạy đó thôi.
2/ Con người một mình thì thiếu thốn, nghèo nàn:
Lời Chúa dạy cho ta biết ý muốn của Chúa về vấn đề này như sau:
“Con người chỉ có một mình là điều không tốt”, tức là không đầy đủ, hoàn toàn. Dựng cho con người một vườn địa đàng, đủ mọi hoa thơm, quả lạ, đầy muông chim, cầm thú, Thiên Chúa thấy họ vẫn chưa hạnh phúc, vẫn thiếu một cái gì sâu xa trong bản thân họ. Nói trắng ra, họ cần có ai khác làm bầu bạn và trợ giúp. Thấu tim đen của họ, Thiên Chúa mới nói: “Thôi được! Ta sẽ làm cho nó một người trợ giúp tương xứng với nó”. Rồi Thiên Chúa giáng xuống cho con người một giấc ngủ kỳ lạ, có ý nói, con người không thấy được việc Chúa làm. Đối với Ađam, việc Chúa sắp làm đây là một mầu nhiệm: Chúa lấy một xương sườn mà làm thành người đàn bà. Tích lấy xương sườn này phải hiểu theo nghĩa bóng, tức là người đàn bà có đồng bản tính nhân loại, bình quyền, và đồng chức vị như đàn ông. Cho nên, khi thấy Eva, Ađam kêu lên: “Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi!”. Viết điều ấy, Thánh Kinh có ý dạy cho các dân tộc bán khai: đừng nên coi đàn bà như vật thấp hèn, rẻ rúng. Cách đây không lâu, có dân còn cho là đàn bà không có linh hồn, như đồ chơi của đàn ông. Và trong những nước vùng Á Đông như Trung Hoa, Việt Nam... các ông tậu hàng tá vợ, nàng hầu, cứ có tiền là bao nhiêu cũng được: phụ nữ bị coi rẻ mạt. Chỉ cần nhớ đến các vua thời xưa có tam cung, lục viện chứa hàng trăm, hàng ngàn cung nữ, cung phi. Vậy không nên hiểu tích xương sườn như thể Thiên Chúa lấy của ông Ađam, làm cho đàn ông bây giờ có xương sườn cụt. Hiểu theo nghĩa đen như thế, đã đưa đến câu chuyện “tếu” sau đây: Có bà vợ kia, quá ghen tuông, đem nào cũng sờ nắn xương sườn chồng, xem có cụt thêm cái nào nữa không, sợ rằng cứ cụt thêm một cái là ông lại có thêm một bà!
Từ xương sườn, Thiên Chúa nắn thành người đàn bà. Chúa không nắn thêm một đàn ông thứ hai, một người đồng chí, một người anh em, nhưng là một người đàn bà, phái nữ, để bổ túc cho ông. Đó chính là cái ông thiếu. Vậy ra, đàn ông không đầy đủ, ông thiếu thốn sâu xa. Thiên Chúa đem đến cho ông một bổ túc cho bản thân, cho cuộc đời ông. Muốn bổ túc, đàn bà phải khác: khác tài, khác tâm lý, khác tính tình, khác vóc dáng, khác năng khiếu... Nhưng bổ túc ấy phải tương xứng, tức là đồng bản tính nhân loại, đồng chức vị, đồng quyền. Các cầm thú không tương xứng, vật chất ăn ngon, mặc đẹp, âm nhạc, hội họa... cũng không tương xứng, nên không bổ túc cho bản thân ông được.
Được vợ rồi, từ đó, hai người quấn quít nhau, kết hợp với nhau: cả hai hợp lại mới thật thành người toàn vẹn, đầy đủ.
3/ Kết luận từ đó thế nào? Rút bài học gì cụ thể?
a/ Nếu Thiên Chúa đã dựng nên con người tự bản chất - bên nam cũng như bên nữ - là thiếu thốn, là bất toàn và cần phải có người kia bổ túc, vậy thì điều trước hết là ta phải nhận mình cần người kia. “Con người một mình là không tốt”.
b/ Càng thấy cần, càng phải quí. Nếu trên mặt bản thân, không gì quí hơn người khác phái. Đó là cả một kho tàng phải quí, phải tôn trọng, vì quà tặng đó của Thiên Chúa. Nếu mỗi bên đều nhìn bên kia với con mắt thán phục, quí trọng, kính vì, thì cuộc đời sẽ đẹp biết bao! Người nữ sẽ nhìn nhận nơi người nam sự khỏe mạnh, giàu nghị lực, làm rường cột, làm người cầm cân nảy mực, có trí óc minh mẫn, thực tế, để điều khiển và tổ chức gia đình, xã hội, nơi nương tựa cho chị em trong những lúc hoạn nạn, sầu đau. Người nam sẽ nhìn sang người nữ với lòng thán phục, vì trong họ chất chứa cả một kho tàng phong phú tình yêu, đầy hiền từ, nhẫn nại, chịu khó, dịu dàng, mềm mại, dễ thương, dễ mến. Chẳng phải phụ nữ là biểu tượng của tình yêu sao?
Ông M. bị vợ giận bỏ đi, lần này là lần thứ ba, chỉ vì ông đã nghèo mà còn nóng tính. Biết lỗi, lần này, ông lại đi van xin vợ trở về nhà. Thấy ông có vẻ quá quị lụy bà vợ, hàng xóm cho ông là hèn nhát. Ông đáp lại một câu thật cảm động và có ý nghĩa:
- Tôi phải quị lụy, nhún nhường tìm vợ tôi về, để có người mẹ, con cái tôi có được tình âu yếm.
Thì ra, ông nhận rằng: chỉ có người đàn bà mới có thể đem lại tình thương, và âu yếm là món ătâm thần cần thiết cho con cái ông, mà ông không có được.
Cứ tưởng tượng thế giới này sẽ ra sao, nếu không có phụ nữ? Chắc chắn sẽ buồn tẻ và không còn nhân đạo, chỉ toàn tranh giành, xô xát khốc liệt. Văn chương, thi phú, ca nhạc chẳng còn hứng nữa, sẽ biến mất. Nhà cửa bừa bãi, dơ bẩn, ngập rác rưởi do tính lười biếng của đàn ông... Còn sự gì sẽ xảy đến, nếu thế giới này không có đàn ông? Các bà sẽ chẳng còn cái sung sướng tay bồng tay bế, hôn hít, chắt chiu... Thế giới sẽ vô tổ chức, vô trật tự, vì không còn luật lệ gì cả, tất cả sẽ tùm lum, tà la, rối rít tít mù, không biết đâu mà rờ. Người ta thường nói giỡn: Ba bà với vài con vịt đủ thành cái chợ. Thì lúc ấy, cả thế giới đàn bà sẽ om xòm như một cái chợ vĩ đại.
Còn trong gia đình, nếu thiếu đi người cha hoặc người mẹ, như những trường hợp ly thân, ly dị, gia đình ấy sẽ ra sao? Kinh nghiệm đã cho thấy rõ: thật là bất hạnh! Tội nghiệp cho mấy đứa trẻ! Ở với cha thì mất mẹ. Ở với mẹ thì thiếu cha.
c/ Thực tế, đàn ông sẽ không cậy vào sức mạnh mà khinh bỉ hạng liễu yếu đào tơ. Phụ nữ không đâm tự ti mặc cảm mà coi mình thấp hèn. Đàn ông mà khinh bỉ phụ nữ, người ấy tỏ ra còn trẻ con, chưa trưởng thành, chưa xứng mặt trượng phu. Đàn ông, con trai cậy sức mạnh, đánh đập, lấn át phụ nữ, đó là một kẻ mọi rợ, vũ phu! Các dân văn minh luôn tôn trọng phụ nữ! Các ông chồng hãy nghe lời Kinh Thánh dạy:
“Anh em là chồng, thì phải biết điều mà sống cảnh gia thất với vợ, hợp với thân phận mỏng giòn, chiếu theo nữ tính của họ. Đối với họ phải kính vì, như những kẻ đồng thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời” (1Pr 3.7).
Người đời cũng thường nói: “Không nên đánh vợ, cho dù bằng một cành hoa hồng”.
đ/ Ngay từ nhỏ, tập cho con cái biết tôn trọng nhau, nhất là con trai. Phụ huynh đừng nói điều gì, đừng làm hành vi nào tỏ vẻ khinh bỉ đàn bà, con gái. Tập cho mình, cũng như cho con cái biết cách biểu lộ sự tôn trọng ra bên ngoài bằng các cử chỉ, lời ăn, tiếng nói: những cử chỉ lịch sự (chẳng hạn nhường chỗ cho phụ nữ), ăn nói nhã nhặn, thái độ đứng đắn, giúp đỡ nhau tùy khả năng, sức lực (chẳng hạn con trai, đàn ông đảm nhiệm các việc nặng nề. Sức lực của nam giới là để bảo vệ phụ nữ và tránh cho họ những việc nặng nhọc). Những điều nói đây, ai cũng biết cả, nhưng lại không thực hành. Lý do một phần là người Việt ta, dù đạo công giáo, song vì lâu đời thâm nhiễm tinh thần Nho giáo: trọng nam khinh nữ (nam viết hữu, nữ viết vô), cho nên có thái độ khinh rẻ phụ nữ. Nào là: “Bà câm đi! Đàn bà biết gì mà nói!” - hoặc: “Cút xuống bếp đi cho rảnh!” - hoặc: “Đồ con gái, động tí là khóc nhè!”. Chúng ta là Kitô hữu, phải sống theo Chúa Kitô dạy, chứ không theo Khổng Tử dạy. Đừng sợ rằng tôn trọng, nhường nhịn phụ nữ là nịnh đầm, thấy mắc cở, nhục nhã.
2/ Sau nữa, tập biết hợp tác với nhau trong mọi lãnh vực: gia đình, đoàn thể, xã hội... Hãy xem một bác sĩ cũng cần có người trợ tá, nữ y tá... Vì sao ngày nay các bà, các cô ra ứng cử hội đồng, chen chân vào các tổ chức xã hội, ngay cả làm thủ tướng? Bởi vì, tuy người nam có tài tổ chức, khéo điều khiển bộ máy, song phụ nữ thấy nhiều điều tinh tế mà nam nhân không thấy. Như thế là bổ túc cho nhau. Do đó, ngay trong gia đình, từ nhỏ, hãy tập cho có sự hợp tác ấy. Phân công cho con trai, con gái là một chuyện, khuyến khích hợp tác mới mỹ mãn. Người lớn cứ nghĩ lại mà xem, chẳng phải thường thường trong gia đình, ta luôn đề cao con trai, hạ thấp hay coi thường con gái? Con trai thì thế nào cũng được, con gái thì bị kèn cựa từng li từng tí, nhân danh một tục lệ lỗi thời: “Ngày xưa, khi tao còn con gái, còn nết na, nề nếp, khép nép hơn mày bây giờ nhiều”. Đành rằng phận gái phải kín đáo, nết na, giữ gìn hơn, điều đó rất đúng và vẫn luôn đúng; song gò bó, đóng kín và thụ động như xưa là không còn hợp thời và hợp lý nữa. Cho nên phải đề cao khả năng và giá trị cả hai bên, tuy mỗi bên một khác, phải khai thác và phát triển năng khiếu, tính tình, đức tính của hai bên. Một gia đình sẽ đầy sinh lực, sẽ phong phú cũng là nhờ biết làm chủ như thế; một xã hội sẽ giàu mạnh, tiến bộ và văn minh cũng nhờ đó phần lớn.
Gia đình ta đọc kinh đền tạ và cũng xin Chúa giúp sức thực hành bài Chúa dạy hôm nay.