Sunday, July 31, 2022

 BÀI LỜI CHÚA 19-21
Tình Anh Em Ruột Thịt (tiếp)
Trích Tin Mừng Thánh Gioan, ch.11

Ông La-da-rô, em của bà Martha và Maria bị ốm nặng. Hai chị em sai người đi nhắn tin cho Đức Giêsu: Thưa Ngài, kẻ Ngài thương mến đang ốm liệt.
Nghe vậy, Đức Giêsu nói: Cơn bịnh này không đến nỗi chết, song vì vinh quang Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ đó Con Thiên Chúa được tôn vinh (ý Ngài muốn nói: Ngài mà đến chữa thì không chết đâu, song cứ để cho La-da-rô chết, Ngài sẽ đến cho ông ấy sống lại, phép lạ lớn lao này sẽ làm vinh quang cho Thiên Chúa và làm vinh hiển cho Ngài).
Do đó, được tin ấy, Đức Giêsu không vội đến, còn lưu lại thêm mấy ngày. Sau đó, Ngài mới đến làng Bê-ta-nia, thì đã chôn La-da-rô bốn ngày rồi. Nghe tin Đức Giêsu đến ngoài làng, Mat-ta vội vàng ra đón tiếp: Thưa Ngài, nếu Ngài đã có đây, em tôi đã không chết. Nhưng ngay lúc này, Ngài xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ nhận lời Ngài.
Đức Giêsu bảo: Em bà sẽ sống lại.
Rồi Mat-ta vội vã quay về nhà bảo em gái: Thày gọi em đó.
Vừa nghe nói, Maria vội vàng chỗi dậy mà đi gặp Ngài. Đức Giêsu vẫn còn ở đó. Maria đến trước mặt Đức Giêsu liền sấp mình dưới chân Ngài mà rằng: Thưa Ngài, nếu Ngài có mặt đây, em tôi đã không chết.
Đức Giêsu thấy bà và các người đi theo đều khóc than, thì Ngài xao xuyến cả mình. Ngài hỏi: Các ngươi đặt ông ấy ở đâu? Họ đáp:  
Thưa Ngài, mời Ngài đến đây mà xem!
Và Đức Giêsu đã khóc. Người Do thái mới nói: Xem kìa! Ngài thương mến ông ấy dường nào!
Đến trước mồ, Ngài bảo hãy lăn hòn đá lấp cửa, nhưng Mat-ta cản lại: Thưa Ngài, em tôi đã chôn 4 ngày, có mùi hôi rồi!
Nhưng Đức Giêsu bảo bà: Ta đã chẳng nói với bà rồi sao? là nếu tin, bà sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa. Rồi quay vào mồ, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: La-da-rô! Hãy ra ngoài! Người chết bước ra, chân tay còn lúng túng vì các giây vải, mặt còn bọc trong tấm khăn liệm. Đức Giêsu bảo họ: Hãy cởi ra cho ông ấy đi!
Đó là Lời Chúa! - Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa!

Suy niệm Lời Chúa
Đọc đoạn Tin Mừng này, ai chẳng thấy ba chị em La-da-rô rất thương nhau. Khi đau ốm thì săn sóc hết lòng, chạy thuốc chạy thày, không được thì kêu mời Đức Giêsu đến chữa. La-da-rô chết thì chôn em mà lòng đau đớn, khóc lóc không ai an ủi cho nguôi được. Chỉ có một người mà hai chị em hi vọng nhất để cứu sống em mình, đó là Chúa Giêsu, thì Ngài lại không đến. Cho nên lúc gặp Ngài, cả hai chị em đều than khóc thảm thiết: “Nếu Thày có mặt đây, thì em chúng con đã không chết”. Ta có thể nói: Đức Giêsu đã làm phép lạ cho La-da-rô sống lại là để thưởng cho tình thương yêu giữa chị em của họ.
Xem thế, tình thương anh em trong gia đình thật là một mối phúc, thật là một ân huệ, đến nỗi Thiên Chúa phải làm một phép lạ vĩ đại, để trả lại người em cho họ. Bài Lời Chúa kỳ trước đã đề cập đến các lợi ích và một vài bổn phận của tình anh em, chị em. Hôm nay, ta đi tiếp đến bổn phận thứ tư:
4- Muốn chung sống giữa anh em với nhau cho hạnh phúc thì bổn phận thứ tư là yêu thương nhau thật tình. Đó là mỗi người hãy vui mừng vì thấy kẻ khác được may mắn, được thành công; hãy thực tình mong muốn sự lành cho họ, giúp họ nên tốt hơn và công chính, đạo đức như Chúa đòi hỏi và cầu nguyện cho họ...Các điều vừa nói, không phải tự nhiên là thích làm đâu! Cha mẹ phải tập cho đứa trẻ mới được. Nếu có những anh chị tốt, tử tế như gia đình La-da-rô, thì các việc nói trên rất dễ làm. Nhưng, gặp trường hợp anh chị em mình là những kẻ khó tính, ương ngạnh, ích kỷ: thật là khó vô cùng. Tuy nhiên, chính ở đây, bổn phận yêu thương càng cần thiết gấp bội. Phải coi như Thiên Chúa ký thác họ cho mình, để lo lắng và giúp đỡ cách đặc biệt, như những con bệnh mình phải chăm sóc cho đến khi lành. Thánh Phêrô có viết thư khuyên những người tôi tớ: “Anh em là gia nhân, thì hãy hết sức kính sợ, phục tùng chủ, không chỉ những chủ tốt lành, khoan dung mà thôi, song cả những con người ác nghiệt. Quả là một ơn sủng Chúa ban mà anh em phải chịu khổ bất công” (1Pr 2.18-20). Hãy áp dụng lời dạy các tôi tớ ấy vào hoàn cảnh anh em trong gia đình: mỗi người hãy coi như một ân sủng được phục vụ người anh em khó tính của mình.
5- Tình thương nhau còn đòi phải có sự công bằng. Mỗi đứa con đều được quyền ăn mặc, học hành và các sự cần thiết như nhau, tuy được quyền có sở thích và nguyện vọng riêng tùy tính tình, tùy khả năng. Chúng ta hẳn còn nhớ chuyện Kinh Thánh kỳ trước: Chỉ vì ông Yacóp thương một đứa hơn, cho mặc áo đẹp và không bắt lao động như các anh, mà bị các anh ghét và oán thù. Cha mẹ nên lưu ý kẻo sự đối xử chênh lệch của mình sẽ là đầu mối gây bất hòa giữa các con cái. Nên nhớ: trẻ con rất nhạy bén khi thấy có sự đối xử không công bằng. Còn giữa anh chị em với nhau, cũng đừng dành quyền lợi hơn, ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn. Hãy nhớ Chúa Giêsu dạy: “Điều gì ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì ngươi cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt 7.12).
6- Tình thương lại phải tỏ ra bên ngoài bằng hành động: nào là thái độ, cử chỉ dễ thương, không cứng cỏi, thô lỗ; nào là lời nói mềm mỏng, không có ý khinh bỉ, chọc giận, hay cố tình bêu xấu cho người khác chê cười. Lời ăn, tiếng nói phải lịch sự với nhau, đừng vì thân mà suồng sã, thô bỉ. Có những đứa trẻ mở mồm nói thì y như cóc cắn, cộc lốc. Hãy tập nói những câu thần chú sau đây:
- Cám ơn,
- Xin làm ơn giúp cho
- Nếu anh hoặc chị cho phép, em sẽ...
- Xin lỗi...
Mấy câu ấy làm hởi lòng, hởi dạ tình anh em thêm thắm thiết, vả lại cũng là những câu mà ai là người lịch sự đều dùng.
7- Tình thương cũng còn biểu lộ qua đôi chút quà tặng, dù chỉ là một quả mận hái trong vườn, một trái me chua, một món đồ chơi ít tiền...Sau khi lỡ cãi nhau, biết đem mấy cục kẹo đến làm hòa. Còn phải biết mở mắt ra mà nhìn cái gì mình có thể làm cho anh chị em. Có nhiều người mù và câm, chẳng bao giờ thấy anh chị em mình cần gì hoặc buồn khổ ra sao mà giúp đỡ hay nói một lời an ủi...Lại có những đứa gặp chuyện tranh chấp quyền lợi, hoặc trái tính, xung khắc, đã không biết ôn tồn phân xử, lại nghĩ rằng: cứ dùng đấm đá, la lối, chửi rủa là xong hết! Đó là cách xử trí của người mọi rợ! Chúng ta là người văn minh không đối xử như thế! Hơn nữa, chúng ta lại là con Chúa, nên phải tập từ tốn giãi bày quan điểm, biết nghe nhau, biết suy nghĩ, nhất là biết khiêm tốn nhận mình sai lỗi, hoặc mình không đúng, còn người kia có lý.
Hiệu quả của tình thương giữa anh em ruột thịt:
Trong gia đình sống thương yêu, sau này ra ngoài xã hội sẽ sống tốt và dễ thành công trong cuộc đời. Như vậy, gia đình là trường học căn bản về tình yêu đồng loại ngoài xã hội. Dưới ánh mặt trời ấm nóng của tình thương cha mẹ, ơn Chúa ban xuống linh hồn đứa trẻ khi chịu phép Rửa tội, sẽ như mầm non mọc lên, làm nảy nở các nhân đức yêu thương, hi sinh, xả kỷ, phục vụ.
Cha mẹ sẽ lợi dụng mọi dịp để cho con cái thấy các vấn đề luân lý chúng đang thực hành trong gia đình, sau này sẽ phải thực hành ngoài xã hội. Chúng sẽ học biết: con người rất thiếu sót, cần có nhau để bổ túc cho nhau, không ai được phép là một hòn đảo riêng rẽ. Đừng chỉ lo cho quyền lợi riêng, còn phải biết để ý đến các quyền lợi và ước vọng của người khác, như lời Kinh Thánh dạy: “Mỗi người đừng chỉ lo mưu lợi riêng, còn phải nghĩ đến quyền lợi kẻ khác. Hãy xem gương của Đức Kitô đó kìa: Ngài có quyền giữ chức vị và quyền lợi ngang hàng với Thiên Chúa, ấy thế mà không, Ngài nhường lại hết, đành mang thân phận nghèo nàn, tôi đòi và hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết”.
Không được tẩm nhiễm những ý thức phục vụ và xả kỷ. Các con cái dễ đâm lệch lạc, sống ích kỷ, làm sao cho chúng hiểu có anh chị em ruột vây quanh mình là một ân huệ Chúa ban, hầu chúng được nên con người tốt, xứng đáng, làm vinh dự cho đời chúng. Được phục vụ người khác phải là một niềm hạnh phúc của con người, đúng như Chúa dạy: “Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận” (Cv 20.35). Cho chúng hiểu cái tai họa của đứa trẻ sống một mình, sẽ trở nên ích kỷ ghê sợ, không chơi với ai được, việc học hành của nó cũng sẽ chậm hơn, vì không có ai tranh đua, đời sống sau này của nó sẽ khó biết thông cảm với người khác, khó hòa đồng, khó sống với bà con, họ hàng, cộng đoàn và xã hội. Vào đời sống xã hội sau này, nó mới thấy khổ sở, vào đời chức nghiệp mới thấy thiệt thòi, vào đời sống vợ chồng sẽ dễ bị tan vỡ. Còn đứa trẻ nào biết sống tốt đẹp tình huynh đệ với anh chị em mình, sau này dễ trở nên người chồng, người vợ tốt, người cha, người mẹ tuyệt vời.
Một điều nói thêm sau cùng là tình anh em ruột thịt phải kéo dài qua tuổi nhỏ cho đến suốt đời. Trong nhiều gia đình, tình anh em chấm dứt khi một người ra đi lập gia đình. Nơi phong tục đông phương chúng ta, tình gia đình, họ hàng, vốn bền lâu mặn mà, đó cũng là ưu điểm chúng ta sẽ không bỏ rơi người anh, người chị đã ra đi mà gặp thiếu thốn, đau buồn hay hoạn nạn, chúng ta biết chia vui sẻ buồn với họ, lúc họ gặp may mắn, thành công hay gặp rủi ro, thất bại... Kìa xem gương Đức Mẹ Maria: thân gái dặm trường đi bộ cả trăm cây số (lúc ấy làm gì đã có xe đò) để đến thăm bà E-li-sa-bet và chúc mừng bà sắp có con lúc tuổi già hiếm muộn. Sau đó, ở lại luôn ba bốn tháng để phục vụ bà ấy thai nghén nhọc mệt: nào Đức Mẹ quét nhà, thổi cơm, nấu nước, giặt giũ và nâng giấc bà ấy, cho đến ngày mẹ tròn con vuông rồi mới trở về nhà (Lc 1.39-56).

Tích truyện
Người ta thuê một họa sĩ trứ danh đến, vẽ một bức ảnh Thánh Phan-xi-cô khó khăn thật lớn để trang hoàng Đền Thờ. Hôm họa sĩ bắt đầu, một tu sĩ dòng Phan-xi-cô đến dặn ông: Xin lưu ý! Thánh Phan-xi-cô không có râu đâu! Ông phải vẽ cho đúng như vậy. Vâng, tôi sẽ làm ngài vừa ý!
Hôm sau, một tu sĩ cũng Phan-xi-cô, nhưng thuộc ngành Ca-pu-xi-nô, có thói tục để râu, đến dặn: Họa sĩ nên nhớ Thánh Phan-xi-cô, cha chúng tôi, có râu đàng hoàng, phải vẽ cho đầy đủ. Vâng! xin ngài cứ yên tâm.
Thế là cuộc tranh chấp giữa việc có râu, và không râu bùng nổ. Các anh em cùng một cha, song chia làm hai nhóm cứ đến quấy rầy họa sĩ, làm ông điên đầu, không biết ngả theo phe ai. Sau cùng, ông nảy ra ý kiến, treo một bức màn che, ông ngồi sau bức màn ấy mà vẽ, kèm theo tấm bảng tuyên bố: “Ngày khánh thành mới được hạ màn và ai nấy sẽ thỏa mãn”.
Ngày khánh thành đến, anh em dòng hai phe và giáo dân trong vùng kéo nhau đến thật đông, nghi lễ khai mạc bắt đầu, và sau bài diễn văn, màn từ từ hạ xuống, mọi người nín thở, hồi hộp...Trên khung ảnh, Thánh Phanxicô hiện ra, nằm dài, đang đau liệt, mình đắp chăn. Oái oăm thay! chiếc khăn ấy lại kéo lên quá cằm, khiến chẳng ai biết ông tổ lập dòng của mình có râu hay không râu, đúng là bên nào cũng được thỏa mãn, nghĩ ngài có râu cũng được, không râu cũng được.
*************************
BÀI LỜI CHÚA 20
Tình họ hàng, gia tộc
Trích sách Tô-by-a, ch.5tt

Ngày ấy ông Tô-bít sai con trai là Tô-by-a đến miền xa đòi nợ. Dù đường dài thăm thẳm, Tô-by-a và người bạn đường cũng tạt vào làng Ê-ba-tan để thăm ông bà Ra-ghen là chú thím. Bước vào sân, họ gặp ông Ra-ghen đang ngồi chơi, Tô-by-a cất tiếng chào. Hơi bỡ ngỡ, ông đáp lễ và dẫn hai người vào nhà. Ông nói với vợ là bà Eđ-na:
- Cậu thanh niên này sao mà giống Tô-bít, anh tôi quá!
Bà Eđ-na hỏi họ:  Anh em từ đâu đến?
Họ đáp: Chúng tôi là dòng họ Nep-ta-li, bị lưu đầy ở Ni-ni-vê. Anh em có biết Tô-bít, người bà con của chúng tôi không?
Tô-by-a nhanh nhảu nói: Có chứ, chính ông ấy là cha của cháu!
Nghe vậy, ông Ra-ghen vui mừng, tiến lại ôm lấy cậu, áp má vừa hôn, vừa khóc: Xin Chúa chúc lành cho cháu. Ta là Ra-ghen, chú họ của cháu. Cháu là con của một người cha tốt lành, đức độ. Khốn nỗi, một người nhân nghĩa, hay làm việc lành và bố thí như vậy, mà lại bị mù lòa.
Ông Ra-ghen có cô con gái độc nhất, rất xinh đẹp và đảm đang - tên là Sa-ra - khi nàng nghe nói thế cũng vui mừng khóc lóc. Đoạn họ làm cơm thết đãi.
Thoạt thấy cô Sa-ra Tô-by-a đã đem lòng quí mến, đến sau lại được biết nàng là gái chưa chồng. Chiếu theo luật Môi-sen, chàng là người bà con gần nhất có quyền cưới cô hơn ai khác. Chàng đâm ra yêu nàng và tâm hồn chàng gắn bó với nàng.
Mới ngồi vào tiệc, Tô-by-a đã nhờ bạn ngỏ lời xin gả Sa-ra cho chàng. Ông Ra-ghen tươi cười đáp: Cháu cứ ăn uống đi đã, ngoài cháu ra, không ai có quyền lấy Sa-ra, con của chú. Nhưng...
Nói đến đây, ông ngập ngừng, vẻ mặt buồn bã, Tô-by-a hồi hộp chờ đợi. Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Chú đau lòng phải tỏ cho cháu biết là trước khi cháu tới đây, chú thấy hai gia đình ta cách xa ngàn dặm, nên chú đành gả nó lần lượt đến 7 người chồng. Nhưng không hiểu sao,7 người đều chết ngay đêm động phòng. Thôi, cháu cứ ăn uống đi...việc đâu còn đó, để Chúa sẽ xếp đặt mọi sự!
- Cháu sẽ không ăn uống gì, bao lâu chú còn trù trừ về việc của cháu!
Ra-ghen mím môi đáp, sau một lúc suy nghĩ:
- Thôi được! Chiếu theo phán quyết của luật Môi-sen, ta ban nó cho cháu đó. Ý Chúa muốn như vậy. Cầu Chúa trên trời ban cho hai con mọi bề xuôi thuận đêm nay, và đổ xuống cho hai con lòng thương xót và bình an.
Gọi nàng Sa-ra lại, ông cầm tay nàng đặt vào tay Tô-by-a. Ông gọi vợ lấy giấy viết tờ hôn thú, đâu vào đấy, họ bắt đầu ăn tiệc.
Chiều tối, Tô-by-a vào phòng, nhớ lời dặn của người dẫn đường - chính là thiên thần Ra-pha-en - chàng lấy gan và tim con cá bắt được ở sông lúc đi dọc đường, đặt lên lò than đốt cho khói xông lên, xua đuổi tà ma đã khuấy khuất Sa-ra và giết 7 chồng trước của cô, làm chúng phải chạy trốn. Thiên thần Ra-pha-en đuổi theo bắt trói lại (8.1-3). Lúc ấy, chàng mời Sa-ra cùng quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa thương xót và phù hộ cho hai vợ chồng được an toàn, hạnh phúc đến tuổi già.
Cùng lúc đó, ông bà Ra-ghen cũng lén chỗi dậy, gọi gia nhân đi đào huyệt sẵn. Ông nói:
- Mong sao nó đừng bị giết như 7 chàng rể trước, không thì ta thành bia cho người đời mai mỉa.
Rồi ông bảo bà sai tớ gái lén ngó vào phòng xem chàng rể còn sống không, rủi chết thì đem chôn ngay đêm ấy, đừng để ai biết. Đứa tớ gái lén ngó vào phòng, thấy cặp vợ chồng đang ngủ ngon giấc an lành bên nhau. Được biết vậy, ông bà cất tiếng chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Hôm sau, ông vui mừng mở tiệc lớn suốt hai tuần lễ.
Đó là Lời Chúa! - Tạ ơn Chúa! 

Suy niệm Lời Chúa
Qua câu chuyện Kinh Thánh vừa kể, được thấy rõ tình họ hàng thân thiết gắn bó nhau. Hai gia đình ông Tô-bít và Ra-ghen, tuy người bị lưu đầy sang xứ lạ, kẻ được thong dong nơi quê nhà, nhưng hằng thương nhớ nhau. Dù đường xá xa xôi, nhưng nghĩ tình họ hàng, cậu Tôbya cũng cố gắng rẽ vào thăm hỏi, và biết đâu! để thưởng cho lòng thảo kính đó, Thiên Chúa đã ban cho chàng một món quà quí báu: cô Sa-ra xinh đẹp và đảm đang làm vợ chàng. Luật Môsê thời ấy làm cho tình họ hàng thêm chặt: anh em họ phải lấy nhau để giữ được dòng giống, giữ lấy đức tin cho con cháu và bảo vệ tài sản khỏi lọt vào tay người ngoài.
1- Nhìn vào xã hội các tổ phụ thời ấy - mà Kinh Thánh cho ta biết - con cái không chỉ sống với cha mẹ, mà còn cả với ông bà, chú bác, cô dì... Lòng trọng kính, tình thương mến của chúng phải vượt quá giới hạn hẹp hòi của gia đình, mà đi tới cả họ hàng, bà con. Chúng phải tập ngay từ nhỏ biết chào hỏi người trong họ hàng cách lễ phép, biết đi thăm viếng họ, chia vui sẻ buồn, dự các dịp lễ hoặc mừng kỷ niệm, biết báo tin cho những bà con ở xa, biết giúp đỡ những người trong hoàn cảnh nghèo khó, hoạn nạn, nhất là những người già cả, đau ốm...
2- Trong hoàn cảnh sinh sống của ta hiện thời, sự liên lạc và đoàn kết trở nên rất khó khăn: nào chiến tranh loạn lạc, hoặc do hậu quả của chiến tranh, bà con, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi làm ăn, lập nghiệp, rồi đường xá, tàu bè khó khăn, đời sống đắt đỏ, kinh tế eo hẹp, trừ một số nhỏ làm ăn có tiền của, còn đa số chật vật kiếm cơm hàng ngày, không còn thời giờ nhàn rỗi: tất cả những khó khăn kinh tế và vật chất ấy làm cho người ta ngại đến thăm viếng nhau, sợ gây gánh nặng cho nhau, và cứ thế, tình gia tộc càng ngày càng lợt lạt dần.
Do đó, tình thân thiết với họ hàng của mỗi gia đình có thay đổi: tại gia đình này, người ta chỉ nói đến họ hàng cách khinh bỉ; còn tại gia đình kia, họ hàng được quí trọng, biểu dương, như gương mẫu đức hạnh hay gương thành công trên đường đời, làm cả họ thơm lây. Tại nơi này, trẻ con thấy họ hàng đôi bên kình địch nhau; tại nơi khác, trẻ con lại được thấy dẫn giải một lòng tôn trọng, quí mến và săn sóc ông bà nội, ngoại... Có nơi, con cái thấy ông bà bị đối xử cách lạnh nhạt, vô tình, thậm chí mắng nhiếc tàn tệ...
Vậy ta hãy tìm xem ý Chúa muốn sao?
3- Thiên Chúa đã muốn ta sinh ra không chỉ có cha, có mẹ, mà còn có họ hàng, chú bác, cô dì, ông bà nội ngoại, anh em thúc bá, vv...Ta bắt rễ vào trong gia đình, mà rễ còn ăn lan xa và sâu vào cả họ hàng, tông tộc. Nói không ngoa, cả tông tộc nuôi dưỡng và hun đúc ta thành người. Ta không thể bỏ qua, mạnh ai nấy sống, không đếm kể gì đến dòng dõi, tông tộc: họ có ảnh hưởng đến số phận đời ta, trên bản ngã và cá tính của ta. Vì thế, tục ngữ xưa nay có câu: “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh” - “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. Kinh Thánh nói rằng: vị vua anh minh, xuất từ dòng dõi Đavít - có ý nói về Chúa Cứu Thế - sẽ là vị vua được hun đúc bằng mọi đức tính của các tổ tiên: Thần Khí khôn ngoan và trí tuệ như Salômôn, thần khí mưu lược và anh dũng như Đavít, thần khí đạo đức và kính sợ Thiên Chúa như các tổ phụ, các tiên tri. (x. Ys 11.1-5).
Cho nên, cha mẹ và các nhà giáo dục phải chấn hưng lại tình gia tộc, vun trồng liên hệ họ hàng bằng lời nói, hành động, khi có cơ hội: dạy vẽ cho con cái biết giữ những liên lạc tốt đẹp với họ hàng: lòng yêu thương, sự kính trọng, tình thân ái, sự tương trợ, sự tín nhiệm vào nhau, giúp đỡ nhau trong lúc khốn khó, lúc hoạn nạn, ốm đau, trong những dịp vui buồn, tang chế, cưới hỏi, sinh đẻ, biết đi lại thăm viếng, chia vui sẻ buồn, như Đức Mẹ đi thăm bà Ê-li-sa-bet, đang mang thai lúc tuổi già mệt nhọc...(Lc 1.39tt).
Chiều nay, làm giờ đền tạ này, gia đình chúng ta xin Chúa tha thứ các lỗi phạm đến tinh thần gia tộc, để nhờ Lời Chúa, ta ý thức hơn, từ nay sẽ chỉnh đốn cho hợp với ý Chúa.

Tích truyện
Trích hồi ký của một linh mục

Hồi ấy, tôi còn nhỏ, chừng 11 tuổi; như mọi đứa trẻ khác, tôi rất mong Tết đến. Tết thì được mặc áo mới, được mừng tuổi, những đồng xu mới vàng óng, đẹp ghê đi! Có tiền là mua pháo đốt chơi: nào pháo đùng, pháo giây, pháo chuột, pháo tép, pháo xiết...Châm ngòi, rồi tung pháo vào giữa tụi con gái, làm chúng bịt tai vừa chạy, vừa la, thú thật!
Tết còn được ăn cỗ những bữa cỗ ngon lành, đủ thứ của ngon vật lạ ngày thường ít thấy, rồi được ăn bánh Chưng xanh, ăn giò thủ...Ông tôi lại thường hay chế rượu mùi, rượu đào, rượu cúc, uống vào ngọt lừ, thơm phức mà không say. Tết còn là dịp về quê ngoại thăm họ hàng, trên con đường vào làng, khí trời còn lạnh, thường khi có mưa phùn bay lất phất; nhưng khi vào đến nhà, thật là ấm áp: những câu chào nhau và chúc mừng năm mới tíu tít, vang lên ấm cả lòng. Các cháu nhỏ như tôi được xoa đầu, mừng tuổi dăm ba xu “cho cháu ăn quà, chóng lớn, học hành thi đỗ...”
Nhưng trong dịp đầu Xuân, cái làm tôi nhớ không bao giờ quên, tuy đã hơn 40 năm rồi, đó là cứ mùng một, tại nhà ba mẹ tôi - ba tôi là trưởng tộc - tất cả các cô bác, chú dì anh em, họ hàng đều từ khắp nơi đổ về. Sau Thánh Lễ chung ở nhà thờ xứ, về đến nhà, trước hết, là thắp đèn nến bàn thờ lên, cả gia tộc cùng nhau đọc kinh thờ lạy Chúa và kính Đức Mẹ, dâng cả năm mới cho Chúa và xin Chúa chúc lành, ban ơn phù hộ.
Ông bà tôi, các cụ lúc ấy khoảng hơn 60, ngồi trên ghế ngựa kê trước bàn thờ, chung quanh là cha mẹ, chú bác, cô dì, tất cả đều hướng về bàn thờ. Tôi còn nhỏ, nên đọc kinh thì ít, mà lo ra thì nhiều. Có lúc nhìn lên bàn thờ đèn nến sáng trưng, ảnh Chúa thật uy nghi mà nhân từ, cạnh bàn thờ là hai chậu quất và hai chậu cúc vàng...Nhìn đến mẹ tôi, thấy bà đang đọc kinh lớn tiếng, mắt đăm đăm hướng về bàn thờ. Mẹ tôi có vẻ sùng kính lạ thường, có lúc không biết vì tưởng nhớ chuyện gì buồn, mẹ tôi lại ràn rụa nước mắt...Kinh nguyện xong xuôi, cả gia tộc mời ông bà ngồi xuống hai chiếc ghế gụ, có đệm bông, rồi xúm lại chúc tết. Anh cả tôi, là cháu đích tôn, đại diện cả gia tộc đọc bài chúc tết anh đã hì hục dọn cả tuần lễ trước. Dứt bài, đốt pháo nổ vang, xong đến ba mẹ, cô chú, thím dì đến chúc mừng ông bà. Khi đến phiên chúng tôi, được ông bà và ba mẹ cùng cả họ hàng mừng tuổi bằng những đồng tiền mới...
Thế rồi, đang khi đợi đến trưa ăn cỗ, chúng tôi chạy ra sân hoặc ra phố chơi, đốt pháo, hoặc ở trong nhà rủ nhau rút bất, đánh tam cúc... Thật là êm đềm!
Tưởng nhớ lại kỷ niệm xưa, mà lòng còn bùi ngùi nhớ tiếc...Tình gia tộc thật là đậm đà, chúng tôi được hun đúc trong tình gia tộc ấy. Lớn lên, mỗi người mỗi phương trời, còn tôi được ơn gọi làm linh mục, nhưng tình tự gia tộc không bao giờ phai, nó là sức nâng đỡ cho tôi trong cuộc đời, là niềm an ủi cho tôi lúc buồn khổ. Đến nay, đã hơn 40 năm, những khuôn mặt thân ái ấy vẫn còn phảng phất trong trí nhớ, ấp ủ trong trái tim tôi. Trong số đó, có người còn sống, có người đã ra đi, có người đã nằm xuống yên giấc ngàn thu. Nhưng với niềm hi vọng sống lại mà Chúa Kitô phục sinh ban cho, chúng tôi mong sau này chắc chắn sẽ được sum họp lại với nhau trên Nước Hằng Sống, nơi mùa Xuân sẽ không bao giờ tàn.
**********************
BÀI LỜI CHÚA 21
TÌNH BẠN
Lược trích 1 Sa-mu-en 18.1-3; 19.1-7; 20.1-42; 2S 1.17-27
Yô-na-tan là con vua Sa-un. Hôm ấy, sau khi Đa-vít dùng chiếc ná bắn hạ được tên Gô-li-át khổng lồ trở về, cầm nơi tay thủ cấp nó mà ra mắt vua, thì Yô-na-tan sinh lòng ngưỡng mộ Đa-vít. Kinh Thánh tả: xảy ra khi Đa-vít vừa trình diện với Vua Sa-un, thì hồn Yô-na-tan đã gắn bó keo sơn với hồn Đa-vít, và Yô-na-tan đã yêu mến cậu như chính mình. Để bảo đảm tình bạn của mình, Yô-na-tan cởi áo choàng, cởi thanh gươm báu, cả chiếc cung và áo giáp mà trao tặng Đa-vít. Ngược lại, Vua cha Sa-un lại có lòng ghen ghét Đa-vít, vì thấy Đa-vít giỏi, thành công, được dân chúng ca tụng và mến phục, nên Vua lo sợ cho ngai vàng của ông. Ông nhất định tìm cách giết Đa-vít.
Một bên là tình cha con, một bên là tình bạn hữu, Yô-na-tan rất khổ tâm, không biết làm sao. Bao lần, chàng tìm cách biện hộ cho Đa-vít:
- Xin Phụ Vương chớ mang tội giết Đa-vít, vì anh không làm gì xúc phạm đến Phụ Vương cả, trái lại, các điều anh làm đều có lợi cho Phụ Vương. Tại sao Phụ Vương đành mang lấy vạ đổ máu người vô tội vô cớ?
Có lần Yô-na-tan còn liều mất mạng để cứu Đa-vít, vì anh coi mạng Đa-vít như mạng mình. Lần kia, tại bàn tiệc của Vua, thấy Đa-vít vắng mặt, Vua Sa-un hỏi tại sao. Yô-na-tan thưa:
- Đa-vít đã khẩn khoản xin con cho anh đi Bê-lem, để dự tế lễ của cả thị tộc, vì thế, anh đã không đến dự tiệc cùng Phụ Vương được.
Kỳ thực, Đa-vít trốn đi vì biết dự tiệc lần này là sẽ bị Vua giết. Vua đoán được là con mình giúp Đa-vít trốn đi, ông nổi giận la lớn:
- Con của đồ đĩ hư thân! Tao lại không biết là mày đã cặp kè với thằng Đa-vít sao? Mày hãy nhớ: bao lâu nó còn sống, ắt cả mày, cả ngai vàng của tao sẽ không vững đâu! Đi điệu nó về đây, nó đáng bị xử tử!
Yô-na-tan đáp: Tại sao anh ấy phải chết? Anh ấy đã làm gì đáng tội?
Thay vì trả lời, Vua vung giáo đánh chàng. Chàng tránh ngọn giáo và rời bàn tiệc mà đi, bừng bừng tức tối. Chàng biết ý Cha quyết định giết Đa-vít, liền chạy đi báo Đa-vít trốn xa...Gặp Đa-vít, hai người ôm nhau mà khóc...,rồi vĩnh biệt nhau...Từ đó cho đến khi chết, hai người bạn không bao giờ còn được thấy nhau. Thế là hết rồi những ngày vui sướng, chuyện trò bên nhau, cưỡi ngựa, bắn cung, đấu kiếm bên nhau. Xa nhau, nhưng không bao giờ quên nhau, cho đến cái ngày ác nghiệt, Vua Sa-un và Yô-na-tan tử trận trên núi Ghi-bô-a. Được tin sét đánh, Đavít đau đớn, sầu muộn không nguôi. Ông đã làm bài ai ca não nùng và dạy cho toàn dân than khóc người bạn chí thân của mình. Trong bài ấy, có mấy câu này:
“Hỡi con cái Israen, hãy khóc than Sa-un và Yô-na-tan đáng mến, đáng yêu. Núi non Ghi-bô-a, chớ gì từ nay sương móc, mưa nguồn và phì nhiêu đừng xuống trên ngươi nữa, vì ở đó máu anh hùng đã đổ ra... Yô-na-tan hỡi, tôi đau lòng đứt ruột vì anh, và thương nhớ anh vô vàn... Tình anh đối với tôi thật còn thiết tha hơn tình nhi nữ”.
Đó là Lời Chúa! - Tạ ơn Chúa!

Suy niệm Lời Chúa
Người lớn chúng ta, không chắc có mấy ai hiểu cặn kẽ tình bằng hữu chân thật là thế nào, huống chi các thanh thiếu niên, đa số lẫn lộn tình bạn bè, tình đồng chí với tình bạn hữu. Bạn bè và bạn hữu là hai tiếng giống nhau, song thực sự là hai chuyện khác nhau. Cái mà người ta gọi là bạn hữu, kỳ thực chỉ là bạn bè, đàn đúm. Ngay từ nhỏ, trẻ con đã họp nhau lại để nô đùa, rồi lớn lên có những bè bạn để chơi, bè bạn đi học, bè bạn cùng sở, bè bạn thể thao, vv...
1- Chung chung, đó là một nhóm nhỏ có cùng một sở thích, tỉ dụ thích xem đá bóng Mêhicô 86, thích đánh cờ tướng, hoặc cùng đeo đuổi một quyền lợi: cùng làm chung Hợp tác xã, sát cánh để đưa HTX tiến lên, hoặc cùng chung trải qua nhiều biến cố, nhiều cuộc vui: như cùng dự trại hè, đi làm thủy lợi, đi nông trường, cùng đi buôn bán... Nói tóm, các giây liên hệ ấy không mấy sâu sắc và không lâu bền. Ấy là chưa kể có những thứ bạn bè, đàn đúm, tụ họp nhau để làm bạn nhậu, bạn chơi bời, vv..., lúc có tiền bao ăn, bao nhậu, thì thấy mặt vui vẻ, đùa giỡn, lúc mình đau ốm, hay cạn túi lại chẳng thấy đứa nào, cuối cùng bám vào cha mẹ, hoặc vợ con. Kinh Thánh nói: đó là tình bạn giả dối.
“Bạn nào là bạn một thời hay nhân dịp, thì lúc bĩ cực, nó không còn bền vững...Nếu chỉ là bạn rượu chè, vào ngày tai họa, không tìm thấy nó đâu! Con được thịnh vượng, nó như bóng với hình với con, khi con gặp hoạn nạn, nó liền trở mặt lánh xa” (Hc 6.7-12).
Vậy phải chọn bạn chân thật, tốt lành mà chơi, kẻo bạn xấu sẽ làm hư mình đi. Một câu cách ngôn Ả rập nói: “Buổi sáng, anh đi chơi với hắn. Buổi chiều, anh giống hắn mất rồi”.
Nói như vậy, không phải bảo bỏ hết bạn bè, song là tránh bạn bè xấu. Đang khi chờ tìm được người bạn tốt giữa muôn người, ta cũng phải nhận định là bạn bè bình thường, không xấu, cũng có một vai trò làm phát triển nhân cách và đức tính xã hội nơi mỗi người, cách riêng nơi thanh thiếu niên, vì con người sinh ra không sống cô độc, phải nhờ lẫn nhau mới phát triển.
2- Nói sơ về lịch trình tiến triển của tình bạn hữu:
Thường thì bắt đầu từ tuổi 14-16, tuổi dậy thì, khi tâm hồn các em thiếu niên nam nữ thấy khát vọng một lý tưởng cao hơn, muốn gặp và bắt chước người nào chúng ngưỡng mộ, khâm phục... Tuổi ấy, ta thấy chúng thích ra ngoài, không còn thích chơi với anh chị em trong gia đình nữa, để tìm bạn, làm thành từng nhóm, từng băng...
Nhưng chỉ khi nào con người hiểu biết mình rõ ràng và tập được tính làm chủ chính mình, lúc đó, họ mới đủ khả năng trở nên một người bạn chân thật và sâu sắc, và mới biết chọn một bạn hữu chân thật. Những điểm làm thành người bạn tốt là điểm gì? Xin nói đại khái: bạn hữu thật thì tôn trọng nhau, cùng nhau sống những kinh nghiệm của cuộc đời, đang khi ấy, người nọ khuyên bảo người kia những điều hay, điều tốt, trao đổi ý kiến với nhau, cũng như biết sửa lỗi và khuyết điểm cho nhau. Ai nghĩ mình chỉ muốn tìm một người bạn không có tính xấu và khuyết điểm nào, người ấy không bao giờ có bạn. Đàng khác, tình bạn mà không bao giờ giúp sửa lỗi cho nhau, không phải là tình bạn chân thật. “Hãy coi chừng bạn nào chỉ yêu tính xấu của con”, đó là lời khuyên của một người xưa. Như thế, hai người bạn trợ giúp nhau, bổ túc cho nhau, giúp nhau nên tốt hơn, vì trên con đường lành, hai người thì sẽ dễ đứng vững hơn một người lẻ loi. Nhất là trên con đường đi đến Chúa, thật là một an ủi và khích lệ lớn, nếu có một người bạn bên cạnh mình để chia sẻ, tâm sự mà thường mình không nói cho ai, ngay cả cha mẹ, rồi để cầu nguyện cho nhau, và nếu có ai lỡ xảy chân, người kia sẽ nâng đỡ dậy, hoặc đưa bạn trở về, chứ không khinh dể hay xa lánh. Như thế mới gọi là gắn bó với bạn trong hết mọi mặt và với tất cả tâm hồn mình như tình bạn giữa Yônatan và Đavít. Tình bạn như thế sẽ bền vững mãi, lúc thịnh vượng cũng như lúc suy, lúc vui cũng như lúc buồn.
Tóm lại, tình bằng hữu chân thật là :
- Sự tận tụy trong yêu mến,
- Trao đổi và giúp đỡ nhau mặt tinh thần cũng như vật chất, tư tưởng cũng như tình cảm, để càng ngày càng có một sự đồng điệu sâu sắc hơn trong tâm tưởng cũng như ý muốn.
Kinh Thánh ca ngợi tình bạn như thế: “Ai gặp được người bạn trung tín, như gặp được một kho tàng, một điều vô giá! Ai kính sợ Thiên Chúa sẽ gặp được. Vì ai kính sợ Thiên Chúa sẽ là người bạn tốt, vì ta thế nào, ta sẽ có người bạn như thế” (Hc 6.14-17).
3- Chúa Kitô là một người bạn chân tình. Ngài đã nói: “Thày không coi chúng con như tôi tớ, nhưng là bạn, vì mọi điều Thày nghe nơi Cha, Thày tỏ cho chúng con hết”. Tôi tớ đâu có được đối đãi như thế. Chính Chúa Kitô cũng có bạn. Ngoài các tông đồ, nào La-da-rô, nào Mat-ta, Maria mà Ngài thường đến nghỉ chân sau những tháng đi giảng xa xôi, mệt nhọc. Lúc Ngài sắp bước vào đường thương khó, Ngài cần bạn yên ủi, nâng đỡ: “Hồn Thày buồn sầu đến chết được, hãy canh thức với Thày”. Thấy Phêrô ngủ li bì, Ngài than trách: “Phêrô bạn ơi! Sao không thức với Thày được một giờ ư?”.Và cuối cùng, Ngài hi sinh mình để cho bạn sống và hạnh phúc: “Không có tình yêu nào lớn hơn kẻ hi sinh mạng sống vì người mình yêu mến”.

Tích truyện
“Bấc” chỉ là một con chó, nhưng một con chó to lớn lạ lùng và khôn không thể nói hết được. Nó cân nặng tới 63kg. Người chủ cũ, anh Hân, bắt nó kéo xe trượt tuyết chung với đàn chó 13 con khác đến nỗi nó kiệt quệ, ốm o, liệt bại, chỉ còn da bọc xương. Thực ra, Hân cũng không cố ý tàn nhẫn, song anh ở trong thế kẹt, bắt buộc phải ác để cứu lấy mạng mình. Vì lúc ấy xe trượt tuyết của anh đang trên đường đi lên miền Bắc nước Mỹ, nơi đồn là có vàng, nơi toàn là đồng tuyết và băng giá mênh mông vô tận, khí hậu lạnh dưới 50 độ âm. Bấc có linh tính lạ lùng, nó linh cảm tiến đi lần này là mặt băng sẽ vỡ, cả xe lẫn người sẽ tụt xuống hồ nước ngầm ở dưới chết hết. Bấc nằm rụi, không chịu đi. Hân quất roi da, dùi cui túi bụi, tàn nhẫn, chết bỏ. Xót xa, Anh Thóc Tân thấy vậy, giận run lên, không thể kềm chế nổi, anh thốt lên bằng giọng tắc nghẹn:
- Nếu mày còn đánh con chó, tao sẽ giết mày!
Rồi anh ôm lấy nó. Bấc đã gần chết, Hân nghĩ vậy, bỏ đi cũng chẳng tiếc. Khi chiếc xe của Hân đã bỏ đi xa, Thóc Tân quì xuống bên Bấc, đưa đôi tay âu yếm dò dẫm xem có chỗ nào bị gẫy xương không. May thay! Chỉ toàn thương tích tím bầm và tình trạng đói ăn suy nhược khủng khiếp. Dần dần, được Thóc Tân nuôi hồi sức, Bấc khỏe lại như trước. Từ đó nảy sinh trong Bấc một tình thương đối với con người, tình thương lạ lùng, sôi nổi, nồng cháy như chưa hề có con chó nào thương chủ như vậy, có thể nói đây là một sự tôn thờ. Anh Thóc Tân đã là người cứu sống nó; hơn nữa, lại là người chủ lý tưởng, giữa hai bên như thể có một thứ tình bạn, nếu có thể nói được như thế. Anh săn sóc nó như con mình. Mỗi sáng, anh không quên chào nó bằng một cử chỉ thân ái, hoặc một lời vui vẻ ; ngồi xuống nói chuyện lâu với nó, mà anh gọi là chuyện tầm phào, làm cho cả hai đều thích thú. Anh có thói quen túm chặt lấy đầu nó, rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa thốt lên những tiếng rủa, mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Khi được buông ra, nó bật đứng thẳng, miệng như cười, mắt long lanh hùng hồn diễn tả, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, chỉ còn thiếu cái biết nói. Bấc biểu lộ tình thương bằng những cái cắn nhẹ, nhưng ép mạnh hằn vào da thịt. Nhất là tình thương của Bấc được diễn tả bằng sự tôn thờ: nó nằm phục hằng giờ dưới chân chủ, ngước mắt nhìn chủ, theo dõi từng cử chỉ, đôi mắt tỏa tình cảm từ đáy lòng. Có lần, Bấc liều chết để cứu Thóc Tân đang bị thác cuốn. Nó cố sức bơi trên mặt thác gập ghềnh, nước chảy xiết, sóng đập nó vào ghềnh đá toạc mình mẩy; cuối cùng, nó đem được cho Thóc Tân đầu sợi dây thừng ngậm ở mõm, nhờ đó bạn bè kéo anh vào bờ. Lần khác, một tên vô lại nhậu say, giáng một quả đấm vào mặt Thóc Tân. Bỗng từ góc phòng, một tiếng sủa vang lên, đúng hơn một tiếng gầm, và người ta thấy Bấc từ nền nhà bay lên, lao vút qua không trung, nhắm thẳng cổ họng tên kia mà lao tới, đè hắn lăn ra sàn, xé toạc cuống họng hắn. Một con chó mà còn có tình nghĩa đến như vậy!
Truyện còn dài, không kể hết được, xin xem trong cuống “Tiếng gọi nơi hoang dã” của văn sĩ Giắc Lân-đân, Hà Nội xuất bản 1985.

No comments:

Post a Comment